net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

Triển vọng xuất khẩu tích cực trong nửa cuối năm. Thị trường 7/7

Theo Dong Hai AiVIF.com – Sau 1 phiên giao dịch giảm điểm mạnh trên toàn sàn, tâm lý nhà đầu tư trong phiên hôm nay sẽ như thế nào? Những thông tin gì mới trong ngày hôm nay?...
Triển vọng xuất khẩu tích cực trong nửa cuối năm. Thị trường 7/7 © Reuters

Theo Dong Hai

AiVIF.com – Sau 1 phiên giao dịch giảm điểm mạnh trên toàn sàn, tâm lý nhà đầu tư trong phiên hôm nay sẽ như thế nào? Những thông tin gì mới trong ngày hôm nay? Triển vọng xuất khẩu tích cực trong nửa cuối năm, tăng trưởng huy động vốn và tín dụng dự báo lần lượt đạt 5,5% và 4,7% trong quý III và các nhà máy thép lớn của Trung Quốc nâng công suất lên 70%, giá quặng dự báo vẫn giảm… là 3 thông tin mới trên thị trường Việt Nam hôm nay, thứ Tư ngày 7/7. Dưới đây là nội dung chi tiết.

1. Triển vọng xuất khẩu tích cực trong nửa cuối năm

Theo báo cáo về tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại 6 tháng đầu năm 2021 vừa được Bộ Công Thương công bố, dự báo hoạt động xuất khẩu sẽ tiếp tục khởi sắc trong những tháng tới khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) đang dần được thực thi một cách toàn diện hơn, hiệu quả hơn.

Trong 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến và nhóm hàng nông, thủy sản tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi nhóm nhiên liệu khoáng sản vẫn trong xu hướng giảm. Trong tháng 6/2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản,  đạt 2,4 tỷ USD, tăng 1,2% so với tháng 05/2021 và tăng 23,1% so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 9,08% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 13,3 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2020. Nhìn chung hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm nông, thủy sản đều ghi nhận sự tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm nay. Trong đó, cao su là mặt hàng tăng trưởng mạnh nhất với mức tăng lên tới 41,3% về lượng và tăng 80% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 681 nghìn tấn, trị giá 1,149 tỷ USD.

Về nhóm hàng công nghiệp chế biến, trong tháng 6/2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này ước đạt 22,44 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn duy trì mức tăng trưởng cao 31,3% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 135,5 tỷ USD, chiếm 85,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Đà tăng trưởng này đến từ hầu hết các mặt hàng chủ chốt của nhóm như: Điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 25,1 tỷ USD, chiếm 15,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 14,2%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,7 tỷ USD, tăng 22,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 17 tỷ USD, tăng 63,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8,1 tỷ USD, tăng 61,1%...

Đáng chú ý, xuất khẩu hàng dệt may và giày dép có sự phục hồi rõ nét trở lại với mức tăng trưởng hơn hai con số: hàng dệt và may mặc đạt 15,2 tỷ USD, tăng 14,9%; giày dép đạt 10,4 tỷ USD, tăng 27,8%.

Về thị trường xuất khẩu, 6 tháng đầu năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 45,1 tỷ USD, tăng 43,3% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 24,6 tỷ USD, tăng 25,1%; thị trường EU đạt 19,3 tỷ USD, tăng 17,4%; thị trường ASEAN đạt 13,8 tỷ USD, tăng 26,3%; Hàn Quốc đạt 10,5 tỷ USD, tăng 15,2%; Nhật Bản đạt 9,9 tỷ USD, tăng 6,9%.

Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước đang khai thác hiệu quả các lợi thế từ các FTA song phương và đa phương, trong đó có Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA) đang mang lại nhiều lợi thế cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Dự báo hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tiếp tục khởi sắc trong thời gian tới khi mà các FTA đang dần được thực thi một cách toàn diện hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt, các Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKFTA)… sẽ tiếp tục tạo điều kiện để hàng hóa của Việt Nam thâm nhập vào các thị trường đối tác với thuế quan ưu đãi, thông qua đó thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh trong thời gian tới.

2. Tăng trưởng huy động vốn và tín dụng dự báo lần lượt đạt 5,5% và 4,7% trong quý III

Vụ Dự báo, thống kê Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố kết quả của cuộc điều tra xu hướng kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD) quý III/2021. Trong quý II vừa qua, các TCTD đánh giá các nhân tố chủ quan và khách quan tiếp tục có những tác động tích cực giúp cải thiện tình hình kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, mức độ cải thiện đã chậm lại so với quý trước do những ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch COVID-19.

Theo nhận định của các TCTD, điều kiện kinh doanh và tài chính của khách hàng cùng với chính sách tín dụng, lãi suất và tỷ giá của NHNN tiếp tục là những nhân tố quan trọng nhất giúp "cải thiện" tình hình kinh doanh của TCTD trong cả năm 2021. Trong khi đó, sự cạnh tranh từ các TCTD khác tiếp tục là vấn đề các TCTD quan ngại nhất. Cùng với đó, các TCTD tiếp tục kỳ vọng lạc quan đối với nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng trong quý III/2021 và cả năm 2021. Trong đó, nhu cầu vay vốn được kỳ vọng tăng nhiều hơn nhu cầu gửi tiền và thanh toán. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay từ nay đến cuối năm được dự báo xoay quanh mức hiện tại, riêng nhóm ngân hàng thương mại cổ phần và nhóm công  ty tài chính, cho thuê tài chính kỳ vọng giảm nhẹ.

Trong quý III/2021, 56,8% TCTD kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng so với quý II/2021 (trong đó chủ yếu kỳ vọng tăng nhẹ); 35,8% TCTD kỳ vọng không đổi và 7,7% TCTD lo ngại kết quả hoạt động kinh doanh giảm nhẹ. Tính chung cho năm 2021, 85,4% TCTD kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương, 4,9% kỳ vọng không đổi và 9,7% TCTD lo ngại lợi nhuận giảm.

Hoạt động huy động vốn toàn hệ thống được kỳ vọng tăng bình quân 5,5% trong quý III và tăng 11,9% trong năm 2021, tương đương kỳ vọng tại kỳ điều tra trước. Trong khi đó, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng được các TCTD dự báo tăng 4,7% trong quý III và tăng 13,1% trong năm 2021, điều chỉnh giảm so với mức kỳ vọng 14,7% tại kỳ điều tra trước.

Cơ bản các nhóm TCTD đều điều chỉnh giảm mức dự báo tăng trưởng tín dụng của đơn vị mình trong năm 2021 so với kỳ vọng tại kỳ điều tra trước do quan điểm thận trọng hơn trước tác động khó lường của dịch bệnh COVID-19 trong nửa cuối năm 2021. Bên cạnh đó, tình hình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng trong quý II/2021 tiếp tục có những chuyển biến tích cực hơn so với quý I/2021, nợ xấu trong quý II/2021 có xu hướng giảm nhẹ so với quý trước. Xu hướng này tiếp tục được các TCTD dự kiến trong quý III/2021.

3. Các nhà máy thép lớn của Trung Quốc nâng công suất lên 70%, giá quặng dự báo vẫn giảm

Ngày 5/7, tất cả các nhà máy lớn ở thủ phủ thép Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc - nơi sản xuất ra 14% tổng sản lượng thép của Trung Quốc - đã hoạt động trở lại, duy trì công suất ở mức 70%. Đây được xem là mức cao hơn so với quy định hạn chế sản xuất nghiêm ngặt trước đó của Trung Quốc (ở mức 50%) khi chính quyền Bắc Kinh theo đuổi mục tiêu mục tiêu cân bằng nhu cầu thép của nền kinh tế đang phục hồi sau đại dịch với các nội dung cam kết bảo vệ môi trường mà quốc gia này đã cam kết. Công suất này dự kiến duy trì đến hết năm nay khi các chuyên gia dự kiến sản lượng thép thô của quốc gia này sẽ giảm khoảng 60 triệu tấn trong nửa cuối năm 2021. Việc nối lại hoạt động của hàng loạt nhà máy đã đẩy giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng nhẹ vào ngày 5/7. Theo đó, giá quặng trên hợp đồng giao tháng 9 trên sàn Đại Liên tăng 6%, ở mức 1.225 nhân dân tệ/tấn (189,6 USD/tấn).

Ông Zheng Weiwei, nhà kinh doanh thép ở Thượng Hải, chia sẻ với Global Times rằng giá thép giao sau tăng nhưng giá giao ngay vẫn giữ nguyên, bởi quy định kìm hãm giá thép của chính phủ Trung Quốc tác động tiêu cực đến lợi nhuận của các nhà sản xuất trong khi lực cầu không biến động mạnh.  

Trong 5 tháng đầu năm nay, sản lượng thép thô của Trung Quốc đạt 473 triệu tấn, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Động thái này đi ngược lại với với mục tiêu duy trì sản lượng thép thô năm 2021 ngang bằng mức của năm 2020 của chính quyền Bắc Kinh và có thể dẫn tới hệ quả là các nhà máy tại Đường Sơn, An Huy, Sơn Đông và Cam Túc cùng đứng trước nguy cơ buộc phải giảm bớt sản lượng. Điều này sẽ tác động mạnh tới giá và sản lượng quặng sắt nhập khẩu, nhất là Australia. Nước này đang là nhà cung cấp quặng sắt lớn nhất cho thị trường Trung Quốc, chiếm khoảng 60%.

Trong năm 2020, Trung Quốc là quốc gia có sản lượng quặng sắt lớn thứ 3 thế giới với 340 triệu tấn, xếp sau Australia (900 triệu tấn) và Brazil (400 triệu tấn).

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán