net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

PMI sản xuất tháng 6 của Việt Nam giảm mạnh xuống còn 44,1 điểm. Thị trường 1/7

AiVIF.com – Thị trường Việt Nam trong phiên mở đầu cho tháng 7 sẽ có những thông tin gì? Cùng theo dõi 3 thông tin mới nhất trong phiên giao dịch ngày hôm nay thứ Năm ngày 1/7....
PMI sản xuất tháng 6 của Việt Nam giảm mạnh xuống còn 44,1 điểm. Thị trường 1/7 © Reuters.

AiVIF.com – Thị trường Việt Nam trong phiên mở đầu cho tháng 7 sẽ có những thông tin gì? Cùng theo dõi 3 thông tin mới nhất trong phiên giao dịch ngày hôm nay thứ Năm ngày 1/7. PMI sản xuất tháng 6 của Việt Nam giảm mạnh xuống còn 44,1 điểm, lợi nhuận nhiều ngân hàng tăng vọt trong nửa đầu năm 2021 và Úc giảm mạnh nhập khẩu cà phê của Việt Nam.

1. PMI sản xuất tháng 6 của Việt Nam giảm mạnh xuống còn 44,1 điểm

Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam đã giảm mạnh từ 53,1 điểm của tháng Năm xuống còn 44,1 điểm trong tháng Sáu, cho thấy các điều kiện kinh doanh suy giảm mạnh nhất trong 13 tháng và từ đó kết thúc thời kỳ tăng kéo dài 6 tháng liên tiếp, theo một báo cáo vừa được IHS Markit công bố sáng nay (1/7).

“Dữ liệu PMI tháng Sáu cho thấy rõ ảnh hưởng của làn sóng mới nhất của đại dịch COVID-19 lên lĩnh vực sản xuất của Việt Nam khi các công ty phải đóng cửa ở những khu vực bị giãn cách, từ đó dẫn đến sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới của toàn bộ lĩnh vực sản xuất bị giảm mạnh”, Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại IHS Markit, giải thích.

Số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài cũng giảm khi những khó khăn trong khâu vận tải và tình trạng khan hiếm container đã làm trầm trọng hơn ảnh hưởng của đợt bùng phát các ca nhiễm vi-rút. Những khó khăn trong hoạt động vận tải, cộng với tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu và những hạn chế liên quan đến đại dịch, đã làm kéo dài đáng kể thời gian giao hàng của nhà cung cấp. Trên thực tế, mức độ chậm trễ giao hàng là lớn thứ nhì trong lịch sử chỉ số, chỉ kém mức được ghi nhận vào tháng 4/2020. Các nhà sản xuất Việt Nam đã cắt giảm số lượng nhân viên và hoạt động mua hàng trước tình trạng khối lượng công việc giảm vào cuối quý II. Việc làm đã giảm lần đầu tiên trong 5 tháng, với mức giảm mạnh và nhanh thứ nhì kể từ khi khảo sát bắt đầu vào tháng 3/2011.

Tương tự, hoạt động mua hàng giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ khi mức giảm tồi tệ nhất được ghi nhận vào tháng 4/2020 sau đợt bùng phát đầu tiên của đại dịch. Hoạt động mua hàng hóa đầu vào giảm đã khiến tồn kho hàng mua giảm mạnh. Tồn kho thành phẩm cũng giảm trong tháng Sáu sau khi hầu như không thay đổi trong tháng Năm. Tình trạng sản lượng giảm và mong muốn tích trữ ít hàng hơn khi số lượng đơn đặt hàng mới giảm là nguyên nhân dẫn đến giảm tồn kho thành phẩm.

Tuy nhiên, có những dấu hiệu giảm áp lực lạm phát trong tháng Sáu khi tình trạng lực cầu yếu dẫn đến giảm năng lực định giá. Mặc dù chi phí đầu vào tăng với tốc độ chậm nhất trong 7 tháng, tốc độ lạm phát vẫn cao hơn mức trung bình của lịch sử chỉ số khi có các báo cáo cho thấy tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu dẫn đến giá tăng. Đặc biệt, tình trạng tăng giá kim loại được nhắc đến nhiều. Trong khi đó, giá cả đầu ra chỉ tăng nhẹ vì các công ty phải đối phó với tình trạng nhu cầu giảm. Niềm tin kinh doanh giảm thành mức thấp nhất kể từ tháng Tám năm ngoái, và điều này phản ánh những lo ngại về ảnh hưởng tiếp theo của đại dịch. Tuy nhiên, các công ty nhìn chung vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới.

2. Lợi nhuận nhiều ngân hàng tăng vọt trong nửa đầu năm 2021

Cuối tháng 6, một loạt các ngân hàng công bố kết quả kinh doanh nửa đầu năm với những con số ấn tượng.

  • VietinBank cho biết trong 6 tháng đầu năm, lợi nhuận của ngân hàng ước đạt 13.000 tỷ đồng, cao hơn 75% so với lợi nhuận trước thuế cùng kỳ năm trước. Động lực tăng lợi nhuận đến từ tăng trưởng tín dụng 4,8% và tăng mạnh khoản thu từ dịch vụ mang về hơn 3.000 tỷ đồng, tăng 27,6% so với cùng kỳ.
  • MSB công bố ước tính lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt khoảng 2.800 tỷ đồng trong nửa đầu năm, cao gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước và đạt 85% kế hoạch năm.
  • LienVietPostBank (HM:LPB) cho biết lợi nhuận trước thuế trong 5 tháng đầu năm đạt hơn 1.700 tỷ đồng, gần bằng 60% kế hoạch cả năm và cao hơn 70% so với 6 tháng đầu năm ngoái.

Có thể nhận thấy một đặc điểm chung của ba ngân hàng nói trên là tăng trưởng lợi nhuận khá cao và đều vượt 70% kế hoạch của cả năm. Động lực chính của không chỉ của ba ngân hàng trên mà còn của toàn ngành trong thời gian qua đến từ biên lãi ròng (NIM) duy trì ở mức cao khi lãi suất huy động giảm nhưng lãi suất cho vay không giảm tương ứng. Theo nhận định từ FiinGroup, sau khi tăng hai quý liên tiếp, NIM của các ngân hàng có giảm nhẹ trong quý I/2021 so với mức đỉnh quý trước đó, nhưng vẫn ở mức 3,73%, cao thứ hai trong nhiều năm trở lại đây.

Bên cạnh đó, về tín dụng - hoạt động cốt lõi của các ngân hàng, trong thời gian qua cũng có những diễn biến tích cực. Tính đến ngày 15/6, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 5,1%, đồng nghĩa với các tổ chức tín dụng đã bơm ra nền kinh tế khoảng 469.000 tỷ đồng, cao gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2020. Nhiều ngân hàng chưa hết 6 tháng đã dùng gần hết hoặc hết room tín dụng của cả năm và đang xin NHNN cấp cho room mới.

  • Trong 5 tháng đầu năm, MSB đã cạn "room" tín dụng và hiện là một trong 10 ngân hàng đang xin Ngân hàng Nhà nước tăng mức trần tín dụng cho cả năm nay.
  • VietinBank tăng trưởng dư nợ tín dụng từ đầu năm đến nay đạt 4,8%, trong khi con số này của cùng kỳ năm trước chỉ khoảng 1%. Ở chiều ngược lại, tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ mức 0,88% cuối quý I lên mức 1,38% tại cuối quý II do một số khoản nợ phải cơ cấu lại. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 155% xuống 110%. Ngân hàng dự kiến vào cuối năm, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 180%.

Ngoài ra, thu nhập phí của VietinBank và MSB được kỳ vọng tăng lên trong quý II nhờ vào doanh thu bancassurance và việc ghi nhận khoản phí trả trước.

3. Úc giảm mạnh nhập khẩu cà phê của Việt Nam

Theo Cục Xuất nhập khẩu, trong 4 tháng đầu năm 2021 Úc nhập khẩu cà phê từ Brazil đạt 9,7 nghìn tấn, trị giá 27 triệu USD trong 4 tháng đầu năm 2021, tăng 26,5% về lượng và tăng 26,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Thị phần cà phê của Brazil trong tổng lượng nhập khẩu của Australia chiếm 27% trong 4 tháng đầu năm 2021, cao hơn so với 23% trong 4 tháng đầu năm 2020.

Ngược lại, Úc giảm nhập khẩu cà phê từ Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2021, mức giảm 26,3% về lượng và giảm 29,8% về trị giá so với 4 tháng đầu năm 2020, đạt 4,65 nghìn tấn, trị giá 7,9 triệu USD. Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Australia chiếm 13% trong 4 tháng đầu năm 2021, thấp hơn so với 19,02% trong 4 tháng đầu năm 2020.

Thị trường cà phê Úc là một trong những thị trường lớn nhất thế giới. Dự kiến tiêu thụ cà phê tại Úc sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 2,19%/năm trong giai đoạn 2021 – 2026. Xét về mức tiêu thụ bình quân đầu người, Úc nằm trong số 30 quốc gia tiêu thụ cà phê hàng đầu thế giới. Tiêu thụ cà phê nội địa hàng năm ở Úc đạt gần 1,87 triệu bao (loại 60 kg). Trung bình, người Úc tiêu thụ khoảng 1,91 kg cà phê/người/năm vào năm 2019, trong đó 1,4 kg là cà phê rang và khoảng 0,5 kg là cà phê hòa tan. 

Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ cà phê tại nhà của người dân Úc tăng mạnh.  Thị hiếu tiêu dùng ưa chuộng nhiều loại cà phê khác nhau (cà phê nguyên hạt, dạng xay, hòa tan và dạng viên nang), trong đó cà phê pha chế từ hạt cà phê rang được ưa chuộng nhất, song tiêu dùng cà phê hòa tan tại Úc có xu hướng tăng bởi sự tiện dụng và pha chế dễ dàng.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán