net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán

Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!

Thứ Hai, 27 tháng 9, 2021
Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng! Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!

Vietstock - Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!

Mới đây, có đại biểu Quốc hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét trong thời gian tới thay việc quản lý bằng biện pháp hành chính là cấp “room” tín dụng (tức hạn mức tăng trưởng tín dụng – người viết), bằng việc quản lý hệ số an toàn vốn, vừa đảm bảo an toàn, vừa phù hợp với chuẩn Basel 2 và thông lệ quốc tế.

Vì sao NHNN luôn kiên định với công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng?

Lý do cho đề nghị này, theo vị đại biểu, là cần có những biện pháp, những chính sách, cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước, nhất là để doanh nghiệp tư nhân, được thuận lợi vay vốn, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng. Vốn tín dụng từ ngân hàng là nguồn tiếp cận chính của doanh nghiệp.

Nếu dòng vốn không kịp thời, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, kiệt quệ dẫn đến phải đóng cửa, phá sản. Kinh tế có thể dẫn đến suy thoái, sau một đợt khủng hoảng tài chính sẽ cần rất nhiều năm để phục hồi.

Theo người viết, dường như vị đại biểu trên đã hiểu sai về vai trò và tác động của hạn mức tăng trưởng tín dụng đến doanh nghiệp và nền kinh tế nên mới đề nghị NHNN bỏ nó đi.

Cụ thể hơn, hạn mức tăng trưởng tín dụng đúng là sẽ hạn chế mức độ tăng trưởng tín dụng (tức “room” tín dụng theo cách hiểu của vị đại biểu) của từng tổ chức tín dụng theo ý kiến chủ quan của NHNN. Nhưng điều này không có nghĩa là doanh nghiệp là khách hàng của một tổ chức tín dụng cụ thể, ví dụ là ngân hàng A, cũng sẽ bị giới hạn mức độ cho vay một cách tương ứng.

Bởi ngoài ngân hàng A thì doanh nghiệp còn có thể vay vốn ở ngân hàng B, C, E…, miễn là doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn để được vay vốn từ các ngân hàng này. Tất nhiên cũng phải có thêm điều kiện đủ là lãi suất cho vay của các ngân hàng này phải ở mức cạnh tranh, chấp nhận được.

Trước sự hiểu sai nói trên thì rõ ràng NHNN không có lý do gì để phải bỏ công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng, một công cụ mà cho đến nay NHNN luôn kiên định bảo vệ. Lưu ý thêm rằng người viết lập luận “hộ” cho NHNN như thế này không phải là để ủng hộ NHNN duy trì công cụ này. Thực tế, người viết đã đôi lần phân tích sự bất hợp lý của công cụ này, và sẽ tiếp tục lặp lại ý này trong phần sau của bài viết.

Liệu hạn mức tăng trưởng tín dụng có phải đang được sử dụng như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, bao gồm tự nguyện cắt giảm lãi suất cho vay với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19?

Tất nhiên, vị đại biểu trên có thể bổ sung thêm vào lập luận của mình rằng do các ngân hàng khác như B, C, E… cũng bị hạn chế tăng trưởng tín dụng (tăng trưởng tín dụng của họ cũng chỉ được phép ở một mức cụ thể nào đó, ví dụ như 12% hoặc 18% trong năm, chứ không phải là vô hạn) nên rốt cuộc doanh nghiệp đi vay từ các ngân hàng này cũng sẽ bị hạn chế số vốn vay được.

Cho dù vậy thì cần nhớ rằng, về nguyên tắc, sẽ không thể, không bao giờ có việc một ngân hàng trung ương lại để cho doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu thì cũng được hệ thống ngân hàng đáp ứng (vô điều kiện). Hệ thống ngân hàng có thể cung cấp bao nhiêu tín dụng cho nền kinh tế phụ thuộc vào cung tiền của ngân hàng trung ương, được tính toán dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát và việc làm.

Do đó, giả sử ngân hàng trung ương (trong trường hợp Việt Nam là NHNN) chỉ muốn tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế ở một con số cụ thể, chẳng hạn là 10%, thì họ cũng chỉ bơm ra nền kinh tế một lượng tiền phù hợp với con số này. Với một lượng cung tiền có hạn, các ngân hàng phải cạnh tranh cho vay một cách tối ưu nhất (khách vay tốt, lãi suất cao), còn khách hàng cũng sẽ chỉ vay một cách tối ưu nhất (lãi suất thấp, điều kiện dễ).

Các yếu tố cạnh tranh mang tính thị trường như vậy sẽ dẫn đến tình trạng luôn chỉ có một số doanh nghiệp được vay/vay được số tiền mong muốn với mức lãi suất “chấp nhận được”. Do đó, dù NHNN không áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì rốt cuộc cũng sẽ không có chuyện doanh nghiệp vay vốn dễ và tùy thích theo nhu cầu.

Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, dù NHNN có nới hạn mức tăng trưởng tín dụng, hoặc tốt nhất là bỏ cái này đi, thì doanh nghiệp vẫn khó, càng khó tiếp cận tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, hạn mức tăng trưởng tín dụng không phải là cái cần bị phê phán trong trường hợp cụ thể của vị đại biểu này.

Nói như trên không có nghĩa là NHNN đã đúng khi kiên định với hạn mức này. Trong phản hồi của mình trước đề nghị của vị đại biểu trên, NHNN cũng đưa ra những lý do… chưa xác đáng, không giải thích hợp lý được tại sao phải duy trì hạn mức này.

Cụ thể, NHNN cho rằng tăng trưởng tín dụng quá cao không chỉ tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế mà còn gia tăng rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng theo hướng đưa ra chỉ tiêu tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng tổ chức tín dụng.

Có thể thấy ngay lý do này của NHNN chính là điều đã được phân tích ở đoạn trên. Theo đó, hoàn toàn đúng đắn khi NHNN cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng cũng như đã nói, để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền – một trong những chức năng và sứ mệnh cơ bản của ngân hàng trung ương, mà cụ thể trong trường hợp muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ – chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.

Cuối cùng, tuy nhiều người, gồm người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Điều này đặt ra câu hỏi, phải chăng NHNN còn ẩn ý gì đó mà họ không tiện nói ra để tiếp tục kiên định như vậy?

Một phần câu trả lời này có thể nằm trong ý đồ sử dụng hạn mức này như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, bao gồm tự nguyện cắt giảm lãi suất cho vay với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19(2).

Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng luôn bằng những lý do… chưa xác đáng!

Phan Minh Ngọc

Để lại bình luận
Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

 EUR/USD1.0658↑ Sell
 GBP/USD1.2475↑ Sell
 USD/JPY157.91↑ Buy
 AUD/USD0.6469Neutral
 USD/CAD1.3780↑ Buy
 EUR/JPY168.32↑ Buy
 EUR/CHF0.9808Neutral
 Gold2,295.80↑ Sell
 Silver26.677↑ Sell
 Copper4.5305↑ Buy
 Crude Oil WTI81.14↑ Sell
 Brent Oil85.62↑ Sell
 Natural Gas1.946↑ Sell
 US Coffee C213.73↑ Sell
 Euro Stoxx 504,920.55↑ Sell
 S&P 5005,035.69↑ Sell
 DAX17,921.95↑ Sell
 FTSE 1008,144.13Sell
 Hang Seng17,763.03↑ Sell
 Small Cap 20001,973.05↑ Sell
 IBEX 3510,854.40Neutral
 BASF49.155↑ Sell
 Bayer27.35↑ Sell
 Allianz266.60↑ Sell
 Adidas226.40↑ Sell
 Lufthansa6.714Neutral
 Siemens AG175.90↑ Sell
 Deutsche Bank AG15.010Neutral
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72-47.5-2.04%
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩmVùng 1Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI$80.83+3.390.04%
Brent$85.50+3.860.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán